Đơn vị đo âm lượng (Volume Units) dựa trên khuynh hướng của tiến trình thính giác để nén các cường độ khác biệt và bỏ qua hay hạ thấp rất nhanh đỉnh (tạm thời). Bảng chia này được điều chỉnh để hiển thị các giá trịdecibel trong cách chúng ta nghe sự khác biệt của cường độ. Bằng cách sử dụng sự thỏa hiệp giữa các giá trị liên tục và đỉnh, khuynh hướng của tai là lờ đi các đỉnh cao đã giải thích qua. VU viết tắt ở đây là đơn vị tham chiếu được dùng cho máy đo VU.
Các máy đo VU (VU meter) là chỉ thị trực quan của mức tín hiệu tại một hay nhiều điểm trong mạch điện của các thiết bị âm thanh. Trong khi +4dBm là tiêu chuẩn cho 0 VU, máy đo thường được hiệu chuẩn cho các mức vận hành thích hợp của thiết bị mà nó tạo nên.
Trên một thỏa hiệp hoàn toàn rất khả thi, phương pháp đo lường này cũng có nhược điểm của nó, thực tế trong tiến trình thính giác có khuynh hướng bỏ qua đỉnh (peak) rất nhanh, đôi khi có thể gây ra sự biến dạng tạm thời có thể dễ dàng nhận thấy sự thay đổi trong chất lượng âm thanh, chẳng hạn như bộ trống jazz. Vì lý do này, VU meter thường được bổ sung bằng một chỉ báo mức cao nhất, thường gọi là Peak Program Meter (PPM).
Hình 4.9: Đáp tuyến của máy đo VU và peak. Lưu ý tại sao âm thanh thoáng qua như của bộ trống không hiển thị đầy đủ trên VU meter. Các đáp tuyến của VU khá tiêu biểu cho sự nhận thức âm lượng theo thời gian của con người cho một âm thanh nào đó. (thuật ngữ peak program có một nghĩa khác biệt đáng kể so với đỉnh tức thời (instaneous peak), như thể hiện trong hình trước đây. Nếu cần thiết, xem lại chú thích đi kèm với hình đó).
Hình 4.10: Đường biểu diễn weight của máy đo mức độ âm thanh. Những đường biểu diễn gần đúng được dùng trong máy đo SPL gần giống đáp tần nghe của người trung bình (theo hình 3.4). Đường biểu diễn A được dự định để tiêu biểu cho thính giác ở 40 phons, đường biểu diễn B tiêu biểu cho 70 phons, và đường biểu diễn C 100 phons. (Định nghĩa của phon được minh họa trong hình 3.5). Phép đo được thực hiện bằng cách dùng những đường biểu diễn này thường được gọi là dBA, dBB và dBC. Đường biểu diễn tương ứng với dBA đã trở thành chuẩn chính thức để đo lường các mức độ áp lực âm thanh, mặc dù thực tế là thính giác thay đổi đáp tần theo SPL. Chắc chắn điều này là lợi ích đơn giản cho những người thiết lập các tiêu chuẩn và những người cần sử dụng chúng. Có thể hình dung, một tiêu chuẩn thay đổi cuối cùng sẽ được nhất trí nhờ vào nó tiếp cận đặc điểm của người nghe trung bình. Nhưng trong tương lai gần, các đường đè (weight) A sẽ là một chuẩn chính thức.