Bảng chia trước đây giới thiệu của các mức áp lực âm thanh sử dụng một điểm tham chiếu tiêu chuẩn, để từ đó có thể thực hiện sự đo lường và dễ chia sẻ. Điều này đã được lập ra để có 0,0002 dynes trên mỗi cm vuông, tương đương với mức ngưỡng thính giác trung bình của trẻ em tại 1kHz. Mức công suất ở ngưỡng này là vào khoảng 10-16 watts âm lượng/cm2 (bằng mười triệu, của một triệu, của một phần triệu của một watt / cm2) của công suất âm thanh. Các ngưỡng cảm giác, mức độ xấp xỉ trung bình mức nghe bão hòa, là khoảng 2000 dynes/cm2, tương đương với một công suất âm thanh khoảng một phần nghìn của một watt âm / cm2, hay 1 / 10 watt âm cho mỗi mét vuông (không nên nhầm lẫn với watt điện). Các phép đo trên thang điểm này thường được xác định bởi chữ viết tắt dB SPL.
Các phần sau đây về dBu, dBm, dBV và dBv giới thiệu các tiêu chuẩn thường được dùng để xác định mức độ tín hiệu trong hệ thống âm thanh. Nếu lối hành văn có vẻ tối nghĩa (gobbledygook), không nên quá nản lòng, vì nó đã làm điên đầu một số kỹ sư giỏi nhất trong lĩnh vực này.
Phần lớn sự nhầm lẫn tồn tại bởi vì các tổ chức khác nhau ban đầu đã làm việc độc lập với nhau, và mỗi tổ chức đó cho ra các nguyên tắc của riêng mình để đo sức mạnh tín hiệu trong loại hình cụ thể mà họ đang làm việc. Ngoài ra, khi công nghệ thay đổi, các phương pháp đo lường quá cần thiết để thay đổi, để có ý nghĩa hơn với các kỹ sư đang sử dụng thiết bị. Đương nhiên, một số phương pháp đo lường trước đây được thực hiện qua trong quá khứ và đôi khi còn được trích dẫn khi hãng sản xuất quyết định nó thích hợp. Đồng thời, nhiều đơn vị và thông số kỹ thuật cũ hơn vẫn tiếp tục được phát hiện trong lĩnh vực này.
Nhưng sự nhầm lẫn không hoàn toàn lớn như đôi khi nó có vẻ vậy. Thông thường, trừ khi thiết bị này là không phù hợp với các thiết bị khác trong hệ thống, hay trừ khi các thông số kỹ thuật bị gian lận để che giấu những khiếm khuyết trong thiết kế của thiết bị hay để cường điệu hóa khả năng của mình, thì các hình thức khác nhau của qui cách, đánh đồng vẫn khá tốt. Thí dụ, một đơn vị thiết bị trong đó có một năng lực xuất ra đã biết, nói rằng, +4 dBm, hay +4 dBu, hay +4 dBv (với một số lượng ngưỡng headroom nhất định) sẽ có khuynh hướng có sẵn mức độ output tương tự (ít nhất là cho tai nghe). Và sự khác biệt giữa những điều này và dBV (chú ý chữ viết hoa V) dưới trường hợp tiêu biểu là chỉ 2.2dB.
Trong thực tế, những cái có khuynh hướng quan trọng nhất là trở kháng phù hợp thích đáng giữa các thiết bị, và mixer, EQ ngoài (outboard) và / hay output của crossover phải đủ mức cần thiết để khởi động các amplifier công suất. Hầu hết các thiết bị hiện đại, âm thanh chuyên nghiệp (trái ngược với hi-fi, thiết bị âm thanh nổi dân dụng) thường có khả năng tương thích với nhau khá tốt. Sự bất xứng trở kháng triệt để giữa các thiết bị hiện đại rất hiếm, mặc dù sau đó kết quả thường không nghe được. sử dụng một thiết bị với trở kháng phù hợp, thường chỉ cần thiết khi dùng một thiết bị tube amp loại lớn hay thiết bị có ghi rõ output trở kháng cao ở đâu đó trong chuỗi tín hiệu hiện nay là một trường hợp cực kỳ hiếm có. Do đó chủ đề chính có khuynh hướng tạm đạt hiệu quả (hay cấu trúc lại) giữa các thiết bị trong hệ thống, sẽ thảo luận trong phần “Basic Gain Structures” của chương này và trong chương 7.