Chức năng cơ bản của Mixer (Basic Mixer Functions)
Mixer âm thanh có thể được thiết kế để thực hiện khá rộng rãi các chức năng xử lý / định tuyến tín hiệu. Hầu hết các chức năng của một mixer điển hình có thể mô tả bằng hai loại cơ bản: những liên kết với channel input và những liên kết với master, hay channel output.
Một channel input điển hình, từ quan điểm của người vận hành (operator), sẽ có hai mức độ điều khiển, phần điều khiển âm sắc (EQ), và một hay nhiều điều khiển phụ cho phép nhân bản tín hiệu và gửi đến các output riêng biệt.
Mixer làm được tất cả, nhưng hầu hết các ứng dụng cơ bản đều được thiết kế để cho phép kiểm soát tín hiệu trong nhiều giai đoạn. Điều này cho phép người vận hành sử dụng tối ưu những mạch điện của hệ thống (để cho phép có ngưỡng headroom tương xứng và có tỷ lệ giữa tín hiệu với tiếng nhiễu signal-to-noise ratio tốt nhất). Giai đoạn đầu tiên, bộ suy giảm tín hiệu nhập (input attenuation), cho phép các tín hiệu đến sẽ ổn định trước khi vào mạch còn lại của kênh (channel) đó, cho phép có cường độ tín hiệu tương xứng mà không làm quá tải channel đó. Nó cũng cho phép fader bố trí trong một giải hoạt động thuận tiện cho người vận hành. Fader thông thường đặt dưới cùng của từng channel (hay gần người vận hành nhất), và thường được cấu hình bằng loại thanh trượt hơn là loại xoay. Fader ổn định số lượng tín hiệu gửi đến các phần output (hay submaster) của mixer.
Từ góc độ của người vận hành, chức năng kiểm soát bất kỳ mức độ nào, đại khái có thể được so sánh với một van nước đơn giản có thể làm giảm cường độ tín hiệu, hay ngăn chặn dòng chảy hoàn toàn. (Nhấn mạnh ở đây là từ “đại khái”. Thực ra, những gì được kiểm soát là số lượng gain đạt được, nói cách khác là độ khuếch đại). Điều này được thực hiện bằng biến trở (potentiometer), thường được gọi ngắn gọn là pot. Những pot cho phép điều chỉnh, trên cơ sở từng bước, với cường độ của chức năng bất kỳ trên mixer mà switch đơn giản sẽ không làm nổi.
Input của các channel thông thường cho phép có bộ cân bằng riêng cho mỗi channel (onboard EQ). Các loại EQ onboard có trong các thiết kế mixer dĩ nhiên phụ thuộc vào cả ứng dụng mà mixer đã thiết kế, cũng như (rất nhiều) vào các yếu tố chi phí. Mixer đa năng hơn, không có gì đáng ngạc nhiên, có khuynh hướng thiết kế để có EQ onboard linh hoạt và phức tạp hơn. Hiệu quả của EQ onboard đa năng như là EQ với filter sweepable hay parametric phần lớn phụ thuộc vào mức độ kỹ năng của người vận hành. Trong thiết kế của nhiều mixer, như đã đề cập, cũng có thêm một switch low-cut cho phép người vận hành cắt giảm các đáp tần thấp của tiếng nói và nhạc cụ treble.
Một input channel điển hình cũng sẽ cung cấp hai hay nhiều phụ gửi (auxiliary send), nó có tín hiệu giao đến từng auxilary output riêng biệt. Điều này cho phép người vận hành điều chỉnh số lượng riêng của tín hiệu đó sẽ được gửi đến thiết bị khác thay vì đến amplifier và loa chính, chẳng hạn như để giám sát ampli monitor hay bộ hiệu ứng (effect unit).
Khi vặn biến trở (pot) aux send lên, tín hiệu được đưa vào một đường (line) buss (bus) (≈nhánh) bên trong mixer. Buss, như tên của nó, là cách mang theo một nhóm tín hiệu riêng đi dọc theo tuyến tín hiệu chung. Ở đây điểm đến là khuếch đại kết hợp, cũng gọi là khuếch đại tổng hợp (summing amplifier) (hay đơn giản, sum amp). Summing amp bên trong mixer đặt ra (put out) một tín hiệu tiêu biểu cho sự kết hợp của tất cả tín hiệu đưa vào buss đó, trong trường hợp này là aux. buss. Aux, kiểm tra tổng thể rồi xác định gain output chung của hỗn hợp auxilary. Tương tự như vậy, tất cả fader channel cấp dữ liệu tín hiệu của nó vào mixing buss chính (gọi là programing mixing buss) rồi tổng kết và sau đó đưa đến output chính của mixer sau khi điều chỉnh bằng fader chính (main fader).
Phần tổng thể (master) của mixer có thể, ngoài việc kiểm soát fader output và bộ phụ trợ tổng (auxilliary master control), bao gồm kiểm soát tín hiệu hồi lại (return) từ những bộ hiệu ứng (effect units) để đưa vào hỗn hợp chính (main mix), cũng như truy cập và kiểm tra các tín hiệu input phụ từ những nguồn khác như tape, hay tín hiệu từ output của mixer phụ (mixer phụ gọi là submixer).
Thiết kế phổ biến ở nhiều mixer đa năng liên quan đến việc sử dụng submaster, hay subgroup. Submaster cho phép người vận hành kiểm tra nhiều nhóm input channel trong những chuyên mục, thí dụ như bộ trống, v.v, bằng cách sử dụng những thiết bị chuyển mạch (switch) thích hợp trên input channel. Chắc chắn hữu ích cho quy trình mix khi tín hiệu input có rất nhiều loại khác nhau. Thiết kế tham gia khá nhiều gọi là ma trận (matrix) cho phép người vận hành cho ra nhiều output và gửi từng submixe cho mỗi matrix output ở mức độ khác nhau, từ đó thiết lập một thành phần riêng biệt tại mỗi matrix output. Sử dụng tiêu biểu của ma trận là thu âm multitrack tại chỗ và/hay là phương pháp cung cấp vài monitor mix từ mixer chính.
Thiết kế Mixer cho các ứng dụng cơ bản thường không có nhiều tính năng như trên, nhưng có thể gồm EQ onboard bổ sung cho các tín hiệu đã trộn, cũng như có thể là bộ khuếch đại công suất nội bộ (internal power amplifier) có output ra loa. (loại này thường gọi là mixer/amplifier, powered mixer hay PA head). Hình 7.1: Mixer 24 channel điển hình (với matrix 4 x 4).